Nguyễn Tường Thiết

 

 

 

Đẹp như kiếp Bohémien

 

 

 

 

Người đẹp thành Vienne
 
Trước mặt tôi là một tờ giấy nhỏ. Tất cả còn lại ghi dấu kỷ niệm của tôi với nàng. Tờ giấy chỉ là một phiếu tính tiền, mặt trước in hình màu vàng óng của một cốc bia sủi bọt. Cắt ngang cốc một hàng chữ lớn EDELWEISS. Phía dưới là một hàng chữ nhỏ Das edle weisse aus den alpen. Dưới nữa là những cột và hàng kẻ của phiếu tính tiền với những hàng chữ nhỏ mà vị trí trên cột cho tôi phỏng đoán ý nghĩa của chúng. Rechnung Mr. (Liệt kê?), Rechnungsbetrag (Tổng cộng hay Giá thành?). Tôi lật mặt sau. Mấy nét vẽ và nét chữ của nàng. Hai đường kẻ sát nhau song song có vạch những nét xéo ngắn ngắn tượng trưng cho con đường tàu điện (Tram). Hai chữ thập bên cạnh đường tàu ghi dấu hotel nơi tôi ở và quán rượu nơi chỗ chúng tôi gặp nhau. Tram số 52. Tuyến metro N3. Trạm Westbannhoff. Và địa chỉ e-mail của nàng. Anita_kurzydlak@.
Tôi lật lại mặt trước của tờ giấy. Trên hình cốc bia có in một hàng chữ rất nhỏ. Tôi đưa tờ giấy lại gần mắt cố đọc. Cốc bia áp sát. Đầu mũi tôi chạm khẽ vào thành cốc. Một chút lạnh và ướt ở chấm mũi. Trong khóe mắt tôi qua màu nước bia vàng óng, dưới bóng ngọn đèn chụp, Anita đứng sau quầy tính tiền. Tôi chỉ nhìn được phần trên của nàng từ bàu vú trở lên. Gương mặt nàng hiện dưới ánh đèn. Đẹp. Vẻ đẹp lung linh qua ánh rượu. Nàng đứng yên đó thờ thẫn. Răng nàng cắn nhẹ vào một bên môi như dáng điệu của một cô gái đang hờn dỗi hay đang có gì để suy nghĩ, hay đang có gì để mơ mộng. Anita tựa hai tay vào thành quầy, hai ngón tay cầm cây bút gõ gõ đập đập vào lòng bàn tay kia với một cử chỉ lơ đãng. Lâu lâu có tiếng gọi giật mạnh “Anita!” từ trong bếp, nàng lật đật buông bút, cúi xuống khẽ nâng chiếc váy xòe lách khỏi quầy tính tiền, đi xuống bếp, dáng đi vung vẩy chiếc váy như theo một điệu nhạc vô hình, mặc dù không hề có một tiếng nhạc ở đây. Lát sau từ trong bếp Anita bước ra một tay chống nạnh bàn tay kia giơ cao xòe bưng cái khay có đĩa spaghetti bốc khói. Nàng xoay người đặt đĩa lên bàn khách, gọn gàng, một cử động trơn tru có lẫn chút gì nhún nhẩy ở trong. Rồi nàng trở về quầy đứng yên tắp, lặng lẽ, cây bút lại tiếp tục gõ nhẹ lên lòng bàn tay, nàng ngó mông lung ra ngoài đêm tối, qua cửa kính, cái bảng quảng cáo nhà hàng Ristorante với chai bia Edelweiss sáng lên chớp chớp.
Ristorante nằm trên góc đường Linzerstrasse, cách khách sạn Kavalier nơi tôi ở ba block đường. Buổi chiều. Đường có tàn cây rợp chính giữa là tuyến xe điện. Quán ăn nằm ngay góc. Trên một mảng tường của hông quán vẽ một lá cờ tam tài thật to, màu xanh dương của lá cờ Pháp thay bằng màu lá mạ, cho tôi biết quán là một nhà hàng Ý. Bước lên mấy bậc xi-măng uốn theo lan can sắt tôi đẩy cửa bước vào. Bên trong phòng ăn nhỏ chỉ đủ chứa sáu bẩy chiếc bàn phủ khăn trắng. Tôi chiếm một bàn nhỏ nhất ở phía trong. Quán vắng. Không có ai ngoài một ông già ngồi uống bia một mình ở một bàn phía ngoài. Tôi ngồi đó khá lâu không có ai ra tiếp. Lâu lâu tôi lắng tai nghe xem có tiếng động nào không ở phòng trong, thông với phòng ngoài bằng một cửa lớn có giăng mành che. Không một động tĩnh. Chỉ có ông già đội mũ phớt đang giương mắt nhìn tôi, hai con mắt đùng đục những rượu. Mãi sau khi tôi đã bắt đầu chán tính bỏ về thì một người mặc đồ trắng, đầu đội mũ cao trắng, tay cầm cái khăn trắng vén tấm mành mành bước ra. Chắc ông ta là đầu bếp hay là chủ quán hay là cả hai. Ông ta liếc nhìn vào chỗ cái quầy tính tiền lúc đó trống trơn và có lẽ vì đọc được ánh mắt bất bình của tôi nên ông ta vội vàng nói mấy câu, tôi đoán là lời xin lỗi, mặc dù tôi không hiểu ông ta nói gì. Lật đật ông ta lại quầy tiền lấy tấm menu đưa tôi và khoanh tay đứng chờ. Tôi nhìn tấm thực đơn. Thực đơn viết bằng cái thứ tiếng gì tôi không đọc được, chỉ có hai cái tên quen quen, đó là hai chữ spaghetti và pasta. Khốn nỗi có cả chục thứ spaghetti và pasta khác nhau mà giá cả rất chênh biệt, tôi không biết thế nào mà lựa. Tôi sổ tiếng Anh nhờ ông ta giải thích các món ăn thì ông ta cũng tương một tràng dài, tôi đoán là tiếng Đức. Rốt cuộc thì rõ ràng không bên nào hiểu bên nào. Ở bên kia bàn ông già ngồi uống rượu thấy chúng tôi đối chất thì có vẻ thích thú lắm. Ông ta đứng hẳn dậy nhìn thẳng vào tôi, một tay gập ngang ngực, tay kia nâng cao cốc rượu, cúi gập đầu xuống chào tôi cung kính như một vị hầu tước ngày xưa. Lúc ông ta ngửng lên ánh mắt ông ta tôi thấy rạng lên, không còn một chút gì đùng đục như tôi thấy chỉ trước đó mấy phút.
Đúng lúc ấy cửa ngoài mở. Nàng bước vào cởi chiếc áo lạnh máng trên giá rồi hấp tấp đứng vào sau quầy. “Anita!”. Ông chủ quay đầu về phía cô gái. Cùng với tiếng gọi ông ta ném về phía nàng một cái nhìn sắc lẻm. Anita tiến về phía tôi với một cái nhìn thật tươi như cô ta muốn chữa lại cái lỗi của mình vì đến trễ khiến cho khách và ông chủ phải bực mình. Tôi lập lại với cô ta những gì tôi đã nói với ông chủ và tôi ngạc nhiên khi nghe giọng nói tiếng Anh của Anita, một giọng rất nhuần nhuyễn.
Tôi order pasta và một cốc bia lớn nửa lít. Ăn xong tôi uống cạn một hớp gần nửa cốc. Bia Đức đặc sánh, thứ bia mà tôi đã quen vị vì tuần trước tôi đã uống khá nhiều ở Beer Garden tại Munich trong ngày hội lớn Oktoberfest. Khi tôi ngửng lên thì bên ngoài trời xẩm tối. Một chiếc tram đi loáng qua khung cửa, trên đường rầy. Bên kia bàn ông khách già vẫn ngồi đó. Ông ta không ăn, chỉ uống, không biết là cốc thứ mấy. Ông cất tiếng hát nho nhỏ, buồn buồn, như lời rên rỉ, ngón tay ông gõ vào thành cốc làm nhịp. Bây giờ tôi thấy ông ta dễ thương, có chen lẫn chút thương cảm. Có lẽ bởi vì tôi cũng bát đầu ngà say như ông. Khi tôi say tôi thấy đôi mắt ông ta không còn đùng đục mà lại có vẻ ướt ướt. Dù đang hát nhưng hễ ông ta bắt gặp ánh mắt của tôi nhìn thì ông ta lập tức cúi gập xuống chào, tay ông ta giơ cao cốc rượu, nói mấy câu mà tôi đoán là lời chào hay lồi chúc tụng. Tôi cũng giơ cao cốc mời chào lại.
Có mấy người khách đến, ăn vội rồi đi, trong quán bây giờ chỉ còn lại mỗi tôi và ông già. Khi cốc bia vừa cạn tôi nhìn về phía quầy ngoắc tay cho Anita làm hiệu một cốc bia thứ hai. Lúc cô ta đứng thẳng dậy đầu cô gần chạm vào cái chụp đèn và ánh sáng làm hoe mái tóc vàng óng ả của cô. Tôi nhớ ngay mấy hôm trước ở Budapest khi chúng tôi bước xuống du thuyền trên dòng Danube thì tiếng nhạc trổi lên. Ôi! Tóc em hoe như mây chiều... Rơi... Rơi... Vàng lòng đời... Ôi! Mắt em xanh như đêm dài... Trong làn hơi men tôi thấy Anita tay cầm cốc bia tiến về phía tôi chiếc váy của nàng như xoay tròn theo điệu nhạc luân vũ và tôi sực nhớ ra mình đang ở trong lòng của thành phố Vienna. Yêu mối tình bên bờ thành Vienne... Anita đứng cạnh tôi tay đặt cốc rượu lên bàn. Tôi chống khuỷu tay ngước mắt nhìn nàng.
– Would you please do me a favor?
– Sure. I’m glad to!
Tôi nói là tôi vừa đến Vienna ngày hôm trước và đang tìm đường để đi thăm downtown của thành phố này. Tôi không có ý niệm gì về khoảng cách từ khách sạn Kavalier nơi tôi ở đến khu trung tâm thành phố. Tôi nói:
– Tôi không ngại phải đi bộ, nếu khoảng cách cho phép.
Anita trả lời:
– Chúng mình đang ở ngoại vi của Vienna. Cũng khá xa khu trung tâm thành phố. Cách tốt nhất là ông đi tram số 52, khi nào tàu điện ngừng ở cuối trạm thì ông xuống. Sau đó ông xuống hầm metro chọn tuyến đường N3, tuyến đường này màu vàng cam, sẽ dẫn ông về phía downtown. Ông có thể hỏi thăm để chui lên ở trạm metro nào khi ông đến trung tâm thành phố. Cách đi cũng dễ dàng thôi. Không có gì khó lắm đâu.
Tôi cười nói với Anita:
– Dễ dàng là với cô thôi, vì cô là thổ công ở đây. Một ngày nào đó nếu cô có dịp sang thăm thành phố Seattle, nơi tôi ở bên Mỹ, nếu lúc đó tôi được hân hạnh chỉ đường cho cô thì chắc chắn là cô sẽ không thích đâu nếu tôi nói là đường xá cũng dễ thôi không có gì khó lắm đâu. Tôi xin cô viết ra cho rõ ràng, bởi vì cô nên nhớ rằng không phải dân ở đây ai cũng nói tiếng Anh giỏi như cô để chỉ đường cho du khách.
Anita đến chỗ quầy tính tiền xé một tờ giấy trong tập biên lai rồi quay lại. Tôi lui vào ngồi ghế trong, nhường chiếc ghế ngoài cho cô ta. Lật mặt sau tờ giấy tính tiền Anita bắt đầu vẽ con đường tàu điện cắt ngang, rồi định vị trí của quán ăn và khách sạn tôi ở. Khi cô viết tên đường và tên của những trạm metro, Anita bối rối:
– Tôi viết thế này đại khái thôi nhé! Tôi không nhớ rõ lắm đâu nhé!
Rồi sực nhớ ra nàng dặïn thêm:
– Đi tàu tram ông cần có 2 euros tiềm kẽm. Trên tàu có cái máy bỏ tiền ở phía sau lưng tài xế. Ông nhớ để ý máy có hai cái lỗ vẽ hai cái đầu của Mozart, đầu lớn dành cho người lớn. Ông bỏ tiền vào đó.
Sau đó chúng tôi ngồi nói chuyện vãn. Quán lúc này vắng và Anita không bận tiếp khách. Người khách duy nhất mà nàng tiếp là tôi vì ông già rượu đã bỏ về từ hồi nào tôi không hay. Thốt nhiên tôi có cảm giác như cả cái quán chỉ còn lại riêng hai người. Anita và tôi. Lúc ấy tôi đã tiêu thụ gần một lít rượu bia và thoát được cái nhìn soi mói của ông già tôi cảm thấy dạn dĩ hơn bội phần. Tôi ngồi ngả sát hơn vào Anita giả vờ như lắng nghe. Trong lúc nàng nói tôi chỉ nhìn thấy những sợi lông măng trên đôi má mịn màng, đôi môi dầy mọng và cảm nhận được hơi thở nồng nàn của nàng, một Anita hồn nhiên, miên man, cho tôi biết nàng là người Ba Lan, sang Vienna học đại học tại đây với hy vọng giật được mảnh bằng tiến sĩ về kinh tế học. Trong thời gian đi học nàng phải làm đủ nghề để sống. Cái quán này nàng chỉ làm ba đêm cuối tuần và đêm nay là chủ nhật, ngày cuối. Mộng của Anita là được đi du lịch thật nhiều nơi, nhất là đi Mỹ và nếu trong tương lai tìm được một việc làm bên Mỹ thì lý tưởng. Tôi tả về thành phố Seattle của tôi, một thành phố không nổi tiếng như Vienna của cô, nhưng đẹp thì đẹp không thua. Tôi mong cô một ngày nào sang chơi để tôi được cơ hội hướng dẫn cô đi thăm Seattle.
Anita bỗng quay hẳn sang tôi. Tôi thấy đôi mắt Anita trong sáng và xanh như dòng Danube. Đôi mắt ấy ánh lên một tia vui:
– Tôi muốn lắm! Thế này nhé! Lúc nẫy ông vừa nói là ông mới đến Vienna chưa được đi thăm thành phố. Ngày mai tôi không phải đi làm. Tôi được rảnh suốt ngày. Tôi rất vui lòng làm hướng dẫn viên đưa ông đi thăm thành phố như một tour guide miễn phí. Chỉ mong là được ông trả ơn như vậy trong tương lai khi tôi đến Seattle.
Quả tim tôi đập mạnh. Hình ảnh một cuốn phim cũ thời xa xưa hiện về. Tôi hình dung tôi là Gregory Peck và Anita là nàng công chúa Audrey Hepburn và Vacance Romaine đổi thành Vacance Viennoise. Rồi một cuộc tình nẩy nở. Biết đâu đấy! Yêu mối tình bên bờ thành Vienne... Chỉ thoáng nghĩ thế thôi. Buồn rầu tôi nói:
– Rất tiếc là tôi có một cái hẹn vào ngày mai, không thể đi với cô được. Tôi xin cô địa chỉ e-mail để liên lạc.
Trong lúc Anita viết địa chỉ của nàng lên mặt sau của phiếu tính tiền tôi thò tay vào túi quần gấp nhỏ một tờ giấy bạc mà tôi không biết là 5 hay 10 euro rồi tôi nắm lấy bàn tay của Anita truyền tờ giấy bạc vào tay nàng.
– Cô đã giúp tôi nhiều tôi chỉ có chút này trả ơn.
Anita rụt tay lại. Nàng sợ hãi nhìn thật nhanh về phía chiếc cửa mành mành nói:
– Nhà hàng không cho phép tôi được nhận tiền “tip”.
– Không, đây không phải là “tip”. Tôi sẽ để “tip” riêng. Đây là của riêng tôi tặng cô.
Tôi nắm chặt lấy tay Anita xoay nửa vòng rồi bàn tay kia của tôi úp lên ve vuốt lưng bàn tay nàng. Thoáng trong một giây tôi thấy bàn tay nàng to hơn hẳn bàn tay tôi và cánh tay trần của nàng tròn lẳn, mập mạp với những sợi lông tơ vàng hoe dưới ánh đèn, tôi nhìn lên bàu vú của nàng và một sự ham muốn làm tôi thều thào:
– Nobody know. Just between you anh me!
Tôi quặp các ngón tay để chuyển tờ giấy bạc vào lòng bàn tay của Anita rồi dùng cả hai bàn tay tôi bóp mạnh tay nàng nắm chặt lấy tờ giấy bạc kéo nàng về phía mình.
Dù là dưới ảnh hưởng một lít rượu bia Edelweiss tôi vẫn mơ hồ cảm thấy một giới hạn nào đó khiến tôi ngừng lại. Buông tay nàng ra, tôi đứng dậy, tiến đến quầy quẳng 15 euros lên đĩa, trong đó tôi đã tính sẵn có luôn 2 euros tiền “tip”. Lặng lẽ tôi bước ra cửa. Không nhìn Anita. Người đẹp thành Vienne của tôi.
 
Ngoài đêm mưa rơi rất nhẹ. Đêm Vienna mờ đi như trong một làn sương loãng. Vỉa hè tôi bước đi những lát đá bóng nhẫy ánh nước dưới ngọn đèn đường. Tôi men dọc theo con đường tàu điện hoang vắng nhớ tới những dòng thơ đẹp mà buồn của Hà Huyền Chi trong bài Vienna:
Anh tới thành phố nước
Lòng gợn sóng Vienna
Kè ôm nhau tình tự
Sao chúng mình chia xa...
Đã khuya khi tôi tìm về khách sạn. Trong lobby nơi quầy rượu vẫn còn người ngồi uống. Tôi nhận ra cặp vợ chồng người Do Thái trong đoàn du lịch của tôi. Tôi bấm thang máy lên lầu 3 rồi đi suốt dẫy hàng lang dài tìm số 338. Cơn say khiến tôi mò mẫm một lát mới đút được tấm thẻ plastic vào khe hộp để mở cửa.
Trong phòng đèn giường vẫn còn bật sáng. Thái Vân đang nằm đọc sách. Nàng ngồi nhỏm dậy, một ngón tay nàng đẩy cặp kính hạ xuống dưới sống mũi, ngước nhìn tôi. Tôi đứng yên đó một hồi lâu nhìn nàng.
Rồi tôi nói. Và lắng nghe cả chính giọng của mình (Lạ nhỉ? Mình không say mà sao như giọng nói của một người khác):
– I am falling in love with Anita!
– What?
Tôi lập lại:
– I am falling in love with Anita!
Tuy say tôi cũng cố bắt chước dáng điệu của Anita khi nàng đặt cái đĩa spaghetti lên bàn khách.
Trên gương mặt Thái Vân thoáng một nét ngạc nhiên. Suốt 33 năm chung sống chưa bao giờ nàng thấy tôi có cử chỉ buồn cười và ăn nói lung tung như thế.
Nàng ngước mắt lên trần mỉm cười nói rất chậm rãi:
– What-e-ver!
 
 
Một đêm với Mozart
 
Chiếc xe buýt của hãng du lịch Cosmos đậu ở đầu đường Mozartova đổ đám du khách xuống rồi chạy ngay. Lúc đó cơn mưa nhẹ vừa dứt và trời chiều ngả tối. Chúng tôi đi lên con đường dốc. Mặt đường đá đen còn bóng nước mưa. Tiếng giầy cao gót của các bà du khách nện trên nền đá gõ lên những nốt nhạc. Đêm nay trong lòng thành phố cổ kính Prague chúng tôi đến dự buổi ca nhạc kịch Một đêm với Mozart tại ngôi biệt thự Bertramka là nơi mà chính Mozart đã từng lưu trú trong thời gian ông viếng thăm thủ đô nước Tiệp vào những năm 1787 và 1791.
Du khách tối nay ăn mặc diện hơn thường lệ. Ngay cả Robert, anh hướng dẫn viên trẻ đẹp trai người Hung Gia Lợi, đã bỏ chiếc quần jeans thay bằng chiếc quần tây thẳng nếp. Một chiếc áo len màu vàng nhẹ khoác lỏng lên vai anh ta, hai cánh tay áo len buộc túm quanh cổ, mái tóc vàng quăn bồng bềnh nghệ sĩ.
Đi ngay sau Robert tôi khen:
– Chà! Đêm nay Rob trông bảnh trai dữ!
Anh ta quay lại nói:
– Tất cả mọi người đêm nay trông đều bảnh hết. Họ ăn mặc tươm tất để tỏ lòng tôn kính nhà soạn nhạc lừng danh của nhân loại. Còn tôi thì khác. Không phải vì Mozart. Mà vì nàng. Josefína. Chủ nhân của Villa Bertramka. Một trang tuyệt thế giai nhân. Rồi ông sẽ thấy đúng như lời tôi nói.
Biệt thự Bertramka nằm trên đỉnh con đường dốc mà dân thành phố Prague đặt tên Mozartova để vinh danh nhà soạn nhạc nước Áo. Đèn đường lúc ấy vừa thắp. Những ngọn đèn gục đầu tỏa ánh vàng trên vỉa hè lát đá. Trả lời câu nói của Robert là tiếng giầy gõ lọc cọc của đám du khách lặng lẽ bước trên mặt đường.
Trên mặt đường này vào ngày 4 tháng 10 năm 1787 có tiếng vó ngựa lộp cộp. Trong cỗ xe Mozart nghiêng người nhìn ra ngoài. Bên cạnh chàng Constanze vợ chàng cũng đưa mắt nhìn theo. Từ trên cao thoải xuống là triền đồi ruộng nho xanh rì bao quanh ngôi biệt thự mùa hè của gia đình Duseks. Đây là lần thứ hai Mozart viếng Prague nhưng lần này chàng đến theo lời mời của ông Dusek và bà Dusková. Mozart quen biết cặp vợ chồng này từ năm 1777, khi bà Josefína Dusková từ Prague đến Salzburg nước Aùo, quê quán của chàng, để thu góp tài sản của ông nội bà mất đi để lại; người ông của bà đã có thời từng là thị trưởng thành phố Salzburg. Ông Frantisek Dusek là một nhà soạn nhạc xuất chúng của Prague còn vợ ông ta, bà Josefína, là một ca sĩ danh tiếng. Thời đó Mozart đã soạn riêng cho Josefína bài hát nói “Ah, lo previdi” và hai người đã cùng nhau hòa tấu ở Salzburg. Giữa Mozart và ông Dusek có sự tương kính: Mozart trọng sự hiểu biết uyên bác của Dusek, ngược lại Dusek khâm phục ý tưởng phong phú và tài năng tuyệt luân của Mozart.
Robert quay lại nói với tôi:
– Mozart ở ngôi biệt thự Bertramka này chỉ một thời gian ngắn, khoảng vài tuần lễ, nhưng đây là thời gian đẹp và đáng ghi nhớ nhất trong đời ông, một cuộc đời như chúng ta đều biết rất ngắn ngủi. Mặc dù không thấy đề cập trong những cuốn sách viết về cuộc đời của Mozart nhưng huyền thoại về mối tình giữa trai tài gái sắc Mozart-Josefína đã được thêu dệt trong dân chúng của thành phố Prague từ trên hai trăm năm nay.
Đến trước một cái cổng lớn mang số 169 Robert đứng lại. Anh ta quay người đứng khoanh tay chờ đám du khách lên dốc. Thái Vân đi sau tôi đang nói chuyện với một cặp du khách người Anh. Lát sau khi mọi người tề tựu đông đủ trước cổng, Robert xem đồng hồ tay và nói to với du khách:
– Chúng ta có khoảng nửa giờ giải lao trong vườn của biệt thự Bertramka, trước khi được chủ nhân hướng dẫn vào thăm bảo tàng viện Mozart. Chương trình ca nhạc kịch Một đêm với Mozart được khởi diễn vào đúng 8 giờ tối.
Mọi người đi vào vườn. Những đèn lồng treo trên cành cây soi lối đi trải sỏi. Chúng tôi đứng tụm từng đám nhỏ nói chuyện dưới những tấm lều lớn căng ngoài vườn. Lát sau có mấy người hầu bàn, ăn bận theo lối xưa với chiếc áo choàng màu đỏ viền vàng, mái tóc cuộn bím hai bên mang tai, đầu đội chiếc nón đen rộng vành kiểu Napoléon, bưng khay đựng những cốc rượu xâm banh mời khách. Có tiếng nhạc cổ điển tây phương rất nhẹ vẳng từ vùng tối của khu vườn cây. Bên trái khu vườn là ngôi biệt thự Bertramka rộng lớn quét vôi vàng. Josefína Dusek mua căn biệt thự này vào tháng 4 năm 1784. Ba năm sau bà đứng trên lầu chỉ cho chồng một cỗ xe ngựa lên dốc, tiến qua cổng rồi ngừng lại ở dưới nhà.
Người xà ích nhẩy xuống mở cửa. Mozart cúi xuống bước khỏi cỗ xe. Năm đó chàng 31 tuổi, người tầm thước, gương mặt xanh gầy. Trừ cặp mắt to và sáng, chàng có một bề ngoài tầm thường không thể cho người ta đoán biết bên trong chứa đựng một tài năng âm nhạc xuất chúng. Chàng giơ tay đỡ Constanze bước xuống rồi quay nhìn về phía Bertramka. Chính diện căn biệt thự là cổng vào ở từng dưới, phía ngoài có hai cầu thang đi lên chụm nhau phía trên, nơi một hành lang dài có lan can. Mozart mỉm cười nhìn nàng đứng trên đó, cạnh chồng. Mười năm đã qua. Josefína trông vẫn sắc sảo như xưa.
Mọi người trong vườn ngừng nói chuyện, cùng ngẩng lên lầu trên của Bertramka. Josefína (do kiều nữ Renée Nachtigallová đóng vai) xuất hiện trước lan can. Nàng bận chiếc áo choàng màu đen với chiếc mũ đen rộng vành, lộng lẫy trước ánh flask từ những chiếc máy ảnh của đám du khách. Bằng một giọng lưu loát và quý phái Josefína chào mừng quan khách bằng cả ba thứ tiếng Tiệp, Pháp và Anh ngữ. Sau đó nàng trân trọng giới thiệu Mozart bằng tiếng Anh với chúng tôi như sau:
“Khi tôi bắt đầu viết vở ca kịch Một đêm với Mozart tôi có cảm tưởng dường như những lời hát xưng tụng Mozart như là “vùng thái dương nhỏ sáng chói của chúng ta” của dân thành phố Prague có vẻ như hơi quá lời. Tuy nhiên sau khi tôi đọc nhiều tài liệu viết về chàng, nhất là những bức thư của chính chàng viết với những lời lẽ rất chân thành, thì một cảm tình xâm chiếm lấy tôi và cảm tình ấy chắc chắn đã xẩy đến cho không biết bao nhiêu người khác trước tôi: đó là lòng tràn ngập yêu mến Mozart. Bây giờ tôi nhìn chàng như thể chàng là một con người khác, khác hẳn con người đã được diễn tả, ví dụ, như trong cuốn phim Amadeus của Milos Forman, hoặc trong một số tài liệu phổ thông khác”.
“Vì thế điều rất quan trọng với tôi là phải mô tả chàng với cả cái khía cạnh sầu muộn của con người Mozart và trong vở kịch này ngoài việc phô diễn biệt tài dí dỏm của chàng mà ai cũng biết, cần nói lên sự hòa giải giữa chàng và cái chết, dường như đã manh nha rất sớm từ năm 1787. Tôi cũng muốn chuyên chở càng nhiều càng tốt đến khán thính giả tính nhân bản trong con người Mozart nhưng thì giờ không cho phép; dù sao thì tất cả những điều đó đã ngầm chứa trong những nốt nhạc của Mozart: những nốt nhạc vui tươi, dí dỏm, tự tin và đầy nhân ái đi đôi với những nốt nhạc nói lên lòng khiếm tốn, nỗi bất hạnh, tính u hoài và tình tuyệt vọng của chàng”.
“Buổi trình diễn Một đêm với Mozart không phải chỉ tái tạo một trong những huyền thoại đáng yêu về những ngày Mozart lưu lại ở Prague mà còn nhắc nhở một khung cảnh và một thời kỳ đã khiến Wolfgang Amadeus mãn nguyện và hạnh phúc. Bertramka (với bảo tàng viện Mozart) trong những năm gần đây đã trở thành nơi hành hương của không biết bao nhiêu du khách yêu chuộng văn hóa Prague thuộc đủ mọi thế hệ, mọi khuynh hướng, mọi quốc tịch; đó chỉ là một bước nhỏ mở cửa cho ta thấy một thế giới của trung tâm văn hóa Bohemian thế kỷ 18, trong đó tất cả những nhạc sĩ, những người bảo trợ và những người yêu nhạc đều có chung nhau một thần tượng: Wolfgang Amadeus Mozart”.
Mọi người vỗ tay tán thưởng bài diễn văn của Nathtigallová và cùng nhau bước lên cầu thang, vào thăm bảo tàng viện Mozart trên lầu của Bertramka, vốn xưa kia là nơi ở của ông bà Duseks và Mozart trong thời gian chàng lưu trú tại đây.
Du khách vào một phòng rộng và dài. Giữa là một tủ kính thật lớn. Trên tường bao quanh phòng cũng là những tủ kính. Aùnh đèn trong những ngăn tủ chiếu sáng những vật được trưng bày. Đó là những tài liệu về Mozart và về gia đình Duseks được chú giải bằng hai thứ tiếng Tiệp và Anh ngữ. Tài liệu bao gồm từ những bài tường thuật của báo chí thời đó, những văn kiện liên quan đến bất động sản Bertramka, cho đến những thư từ, những bản in khắc, bản thảo, tranh vẽ, bản nhạc chép tay, nhạc khí và những vật kỷ niệm về Mozart trong thời gian chàng lưu trú ở Bertramka và Prague.
Ở cuối gian phòng là hành lang thông sang hai căn buồâng khác, một phòng nhỏ chỉ bầy độc nhất một cái đàn dương cầm và một phòng lớn hơn gọi là phòng Mozart, có lẽ là nơi ngủ của Mozart và Constanze.
Trong lúc các du khách khác chỉ đi qua, liếc sơ cái đàn dương cầm và dồn sự chú ý vào căn phòng ngủ của Mozart, thì tôi, một mình, tôi đứng lặng rất lâu trước cây đàn.
Cây đàn trông nhỏ nhắn, tầm thường. Tôi nhìn lên phím đàn. Mười ngón tay của Mozart, mười ngón tay của một tài năng tuyệt luân đã từng gõ lên đấy. Tôi không ngăn được ý nghĩ muốn sờ thửø, muốn lồng bàn tay mình vào bàn tay của chàng. Như đoán được ý nghĩ của tôi một sợi dây to bản căng chùng xuống giữa hai cột đồng ngăn tôi và chiếc dương cầm bằng một khoảng cách vừa ngoài tầm tay với.
 Mozart ngồi xuống. Ngay trước chỗ tôi đứng. Josefína đứng bên đàn, hồi hộp chờ đợi. Rồi tiếng dương cầm gõ từng tiếng thánh thót. Nàng cất tiếng hát. Giọng hát trong suốt như tiếng ngân vang của thủy tinh. Tiếng hát vui tươi cao vút bỗng đổ xuống buồn bã, ai oán, thảng thốt. Đêm đó mồng 3 tháng 11 năm 1787, Mozart vừa sáng tác xong bài hát concerto nổi tiếng mang tên “Bella mia fiamma, addio!” để riêng tặng nữ chủ nhân Bertramka. Huyền thoại thơ mộng về bài hát này được truyền tụng cho đến ngày nay. Ngày hôm đó, vì nóng lòng muốn có ngay bài hát mà Mozart hứa sẽ sáng tác cho nàng, Josefína sai chồng vào trong bếp pha cà-phê cho Mozart rồi nàng sắp sẵn giấy kẻ nhạc và bút để sẵn trong phòng vẽ, lừa chàng vào căn phòng này, khóa trái lại và nhốt chàng trong đó. Nàng ra hẹn với Mozart là chỉ mở cửa khi nào bài nhạc được viết xong. Mozart nhanh chóng hoàn tất bản nhạc.
Gần đây người ta mới tìm được bản lời ca trong tác phẩm mà Mozart viết riêng cho Josefína vào ngày hôm đó và khám phá sự trùng hợp lạ lùng với lời trong bản ca kịch Cerere placata viết bởi Michelle Sarcone, trình diễn năm 1772 ở Naples, trong đó Titan, vị anh hùng bị bức tử, đã thốt những lời ca bi thiết vĩnh biệt người yêu Proserpina trước khi từ giã cõi đời.
Một lời ca tiên tri. Bốn năm sau Mozart đến Prague và Bertramka lần thứ ba, thăm Josefína lần cuối. Chàng qua đời mấy tháng sau đó, ở Vienna, vào ngày 5 tháng 12 năm 1791 khi chàng mới 35 tuổi.
Mozart-Josefína, Titan-Prosperpina. Một ngẫu nhiên tình cờ hay một song song của định mệnh?
Có tiếng gọi tên tôi.
Tôi quay người lại. Tất cả du khách đã rời khỏi bảo tàng viện từ lúc nào. Tôi đi qua căn buồng ngủ dành cho vợ chồng Mozart, căn phòng được tu sửa và bảo trì giống như tình trạng nguyên thủy với những hình trang trí trên tường và trần do chính tay nữ chủ nhân Bertramka, cũng là một người yêu thích và sưu tập nghệ thuật hội họa, trang hoàng. Tôi đi vào một căn buồng nhỏ khác. Thái Vân đứng đợi tôi ở cửa ra hiệu đã sắp tới giờ trình diễn. Trước khi khép cửa nàng chỉ tay cho tôi thấy một tủ kính đặt ở góc tường. Tôi bước lại gần. Trong tủ, dưới ánh đèn, có trưng bày một lọn những sợi tóc tơ vàng óng ả của nhạc sĩ Mozart.
Phòng trình diễn ca kịch là nội sảnh lớn nhất của Bertramka. Tuy lớn nhưng cũng chỉ chứa được khoảng bốn năm chục người. Phòng hình vuông, quanh tường và sau sân khấu được trang trí bằng những bức họa vĩ đại, tất cả hình sắc và ánh sáng được thiết kế để tái tạo khung cảnh thân mật, ấm cúng của một phòng tấu nhạc thế kỷ 18 nơi mà trên hai trăm năm trước đây Mozart đã thực sự trình diễn.
“Một đêm với Mozart” không phải là một chương trình hòa tấu nhạc thông thường của Mozart như chúng tôi thoạt tưởng khi đặt mua vé từ ở bên Mỹ mấy tháng trước. Tuy buổi trình diễn có chơi nhạc Mozart nhưng trọng tâm ở đây vẫn là một màn ca kịch cốt làm sống lại khung cảnh thật của một đêm với Mozart tại Bertramka, dựa theo hồi ức của bà Josefína Dusková.
Sau khi chồng bà, nhà soạn nhạc Frantisek Dusková(1731-1799) qua đời, Josefína Dusková(1754-1824) hồi tưởng lại những kỷ niệm giữa bà và Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791) mười hai năm về trước, vào những ngày mà người nhạc sĩ thiên tài đã lưu trú ở Bertramka. Thời gian ấy không dài, từ mồng 3 tháng 10 đến ngày 13 tháng 11 năm 1787, vỏn vẹn có 40 ngày, nhưng đối với Mozart cũng như đối với Josefína quả là những ngày diễm ảo đáng ghi nhớ nhất trong đời hai người.
 Theo hồi ức ấy của bà Dusková, chính tại đây trong không gian thơ mộng của Bertramka, trong bầu khí đốâi thoại đầy thoải mái với gia đình Duseks và các nghệ sĩ thành phố Prague mà Mozart đã tìm thấy nguồn hạnh phúc và cảm hứng sáng tác. Chính tại đây ngày 28 tháng 10 Mozart đã hoàn tất vở nhạc kịch Don Giovanni là tác phẩm chàng viết tặng cho dân chúng thành phố Prague. Ngay đêm hôm sau vở nhạc kịch này được trình diễn trước công chúng và Mozart là người điều khiển buổi diễn đầu tiên. Mozart đã tỏ ra lo lắng không biết dân Prague đón nhận những dòng nhạc của mình như thế nào và tỏ ra hết sức vui mừng khi thấy buổi trình diễn đầu tiên được dân thành Prague đón nhận nồng nhiệt.
“Một đêm với Mozart” dựng lại một mảnh trong hồi ký của bà Dusková nhưng là một mảnh đáng yêu nhất: tái tạo đêm mồng 3 tháng 11 năm 1787, đêm đó Mozart vừa sáng tác xong bài hát concerto nổi tiếng mang tên “Bella mia fiamma, addio!” để riêng tặng nữ chủ nhân Bertramka. Huyền thoại thơ mộng về bài hát này được truyền tụng cho đến ngày nay và huyền thoại đó được làm sống lại như thực trên sân khấu.
Bên cạnh một Mozart với thân hình nhỏ thó và ông chồng mệt mỏi già nua (năm 1787 ông Dusek đã 56 tuổi) Josefína xuất hiện trên sân khấu như một thiên thần. Nàng là hiện thân của của sức sống, của sắc đẹp và của tài năng. Sắc đẹp và tài năng ấy không những chinh phục trái tim của Mozart mà còn chinh phục cả trái tim của tất cả du khách tham dự buổi trình diễn đêm nay.
Wolfgang Amadeus Mozart–Bella mia fiamma, addio!... Tiếng hát của Josefína ngân vang vừa dứt. Tiếng hát gửi đến Mozart như một lời vĩnh quyết, cũng là lời tiễn biệt chúng tôi của kiều nữ Renée Nachtigallová, người đã xuất sắc thủ vai nữ chủ nhân Bertramka.
 
Bấy giờ là mười giờ đêm của Prague. Tôi nắm tay Thái Vân lách qua các hàng ghế. Từng cặp du khách lần lượt bước ra ngoài vườn Bertramka. Choàng tay nhau đi trước chúng tôi là một cặp vợ chồng già người Anh. Người vợ đi nép vào vai chồng. Tôi thấy bà ngước mặt lên nhìn chồng âu yếm, rồi bà nói khẽ:
– You fell in love with Josefína, didn’t you?
 
 
Một dòng xanh… xanh…
Một… dòng sông sâu…
 
Khởi đi từ vùng Black Forest bên Đức, kết thúc ở Black Sea của Lỗ-Ma-Ni, Danube là con sông dài thứ hai của Âu Châu sau sông Volga mang những tên khác nhau Danau (Đức), Dunaj (Tiệp), Duna (Hung), Danăre (Lỗ-Ma-Ni).
 Dòng sông chảy qua 10 quốc gia trên một chiều dài 2850 cây-số và chuyên chở trong nó hàng triệu con tim khắp thế giới qua hai bản nhạc luân vũ bất hủ của hai nhạc sĩ trứ danh người Aùo và Lỗ-Ma-Ni: Dòng Sông Xanh (Le Beau Danube Bleu) của Johaan Strauss (1825-1899) và Sóng Nước Biếc (Les flots du Danube) của Ion Ivanovici (1845-1902).
 
*
 
Trong bao nhiêu thế kỷ dòng sông xanh Danube soi bóng đôi bờ hai thành phố nằm đối mặt nhau mang tên Buda và Pest của Hung Gia Lợi. Cho đến năm 1873 chiếc cầu treo được hoàn thành bắc ngang sông nối liền hai thành phố thì Buda và Pest nhập làm một. Ngày nay chiếc cầu treo trở thành biểu tượng làm nên lịch sử của thành phố Budapest.
Khi chiếc xe buýt của hãng du lịch chạy qua cây cầu ấy tôi nhìn xuống dòng Danube và ngạc nhiên được biết Budapest có một dòng sông hiền hòa và nổi tiếng như thế chẩy qua.
Tôi ngạc nhiên vì trước khi tôi đến đây Budapest không hề gợi trong tôi một hình ảnh nào thơ mộng. Với tôi cái tên Budapest dính chặt với một biếân cố lịch sử không mấy gì đẹp đẽ.
Hình ảnh thành phố này trong trí tưởng tôi là những chiếc xe tăng Sô-Viết, là những chai xăng “Molotov coctails”, là dòng thơ của Thanh Tâm Tuyền đã thấm sâu vào tôi ở tuổi đôi mươi:
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest…
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp…
Giống như thành phố Prague cổ kính mà tôi đã đi qua, thành phố Budapest này là một công trình kiến trúc đại quy mô với những tòa nhà nhiều từng nối liền nhau hai bên đại lộ mà mặt tiền trên cao đều trạm trổ công phu. Thành phố tự nó là một bảo tàng viện vĩ đại. Budapest tôi trông thấy bây giờ cũng giống hệt Budapest của nhiều thế kỷ trước, có khác nhau chăng chỉ ở trên mặt đường: những chiếc xe hơi xe điện ngày nay thay thế những cỗ xe ngựa lọc cọc thời xưa.
Khi xe chạy vào trung tâm thành phố, thoáng trong một giây trí óc tôi trở về với biến cố 1956. Những chiếc xe hơi đang chạy như mắc cửi ngay trước mắt tôi vụt mất. Đại lộ bỗng trải rộng thênh thang. Từ một góc phố có tiếng gầm rú, tiếng nghiến của xích sắt trên mặt đường rồi đầu chiếc xe tăng hiện ra, cái tháp quay tròn chĩa họng đại bác lên cao ốc đe dọa. Rồi những cửa sổ đóng kín ở trên cao kia của con đường này đồng loạt mở ra, những chai xăng Molotov tới tấp ném xuống. Tiếng nổ. Đám cháy. Tiếng reo hò. Tiếng đạn bay. Hình ảnh một khúc phim cũ nào đó lóe trong óc tôi như một tia chớp.
Khi chiếc xe buýt đỗ trên bến sông thì trời chiều đã bắt đầu nhuộm tối. Cơn mưa nhẹ dường như đã trôi theo chúng tôi qua ba thành phố từ Prague, qua Bratislava, đến đây. Trước mặt tôi dòng sông Danube–dòng sông “của tôi” trong tâm tưởng–nay đã trở thành hiện thực. Dưới làn mưa mỏng trong buổi chiều tím dòng sông khoác một vẻ mặt mới, khác với vẻ xinh xắn êm dịu tôi đã nhìn thấy từ phía trên cầu. Nó mênh mang, huyền ảo và quyến rũ hơn.
Theo chương trình thì đêm nay du khách dùng cơm tối trên du thuyền và thưởng ngoạn phong cảnh “đêm Budapest” trong khi thuyền trôi trên dòng Danube. Chúng tôi xuống thuyền. Trời tối hẳn. Khi tôi mở cửa bước vào phòng ăn rộng lớn của du thuyền thì một dòng nhạc rất quen thuộc ập vào tôi: Ôi! Tóc em hoe như mây chiều… Rơi… Rơi... Vàng lòng đời… Ôi! Mắt em xanh như đêm dài…
Trong suốt tối đó trên thuyền bản nhạc bất hủ của Johann Strauss được lập đi lập lại trong khi du khách tự lấy thức ăn và ngồi ở hai dẫy bàn đặt dọc theo cửa kính hai bên mạn thuyền.
 Thái Vân ngồi đối diện tôi qua chiếc bàn phủ khăn trắng, một bông hồng đỏ và một ngọn nến giữa hai người.
Bên ngoài cửa kính thành phố Budapest rực rỡ ánh đèn, những kiến trúc lịch sử, những lâu đài được thắp sáng. Nhưng dòng sông thì chìm trong biển đen. Màu xanh của dòng Danube bây giờ chỉ còn trong lời nhạc, trong kỷ niệm. Tôi nhấp cốc rượu vang. Theo với hơi men và dòng nhạc luân vũ dìu dặt trong ánh nến lung linh của du thuyền, màu xanh của dĩ vãng hiện về. Màu xanh của nước biển. Mầu xanh của một dòng sông.
Một dòng xanh… xanh… Một dòng tràn mông mênh… Một dòng nồng ý biếc... Một dòng sầu mấy kiếp…
 Tiếng nhạc trôi tôi về miền quá vãng, cái thời rất xa xưa lần đầu tiên tôi được nghe Thái Thanh hát bài nhạc ấy. Thủa ấy khoảng năm 1953 thời mà Vũng Tàu còn gọi là Cap Saint Jacques, tôi là một đứa bé được gia đình bác tôi cho đi ké theo ra “Cấp”. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy biển. Thằng bé đi lang thang ở bãi trước. Dưới bóng hàng cây thùy dương là những kiosque lúc nào cũng đầy những ông tây cởi trần trùng trục ngồi uống bia trên những chiếc ghế đẩu cao, trong khi những bà đầm nằm thượt phơi nắng trong chiếc ghế vải với bộ đồ bikini hai mảnh trên người. Và chiều nào cũng thế, bãi trước vang vang những lời nhạc phát ra từ máy phóng thanh. Toàn là những bài hát tây. Có vài bài mà đến nay tôi còn nhớ được ít lời: Dans un coin perdu de montagne… (Étoile des neiges) Moulin des amours, tu tourne tes ailes… (Moulin Rouge) Tout le bleu du ciel… danse dans tes yeux… (Tango Bleu)
Rồi bỗng một buổi chiều lần đầu tiên tôi nghe một bài hát lời Việt, giọng trong và cao, vút ra từ máy phóng thanh. Tiếng hát lan hòa nhịp sóng của bãi biển Vũng Tàu. Một dòng xanh...xanh... Một dòng tràn mông mênh... Một dòng nồng ý biếc… Một dòng sầu mấy kiếp… Một dòng trời xao xuyến… Một dòng… còn quyến luyến… Một dòng nhớ quay về miền đời lúc mơ huyền… Như một mối tình đầu, tôi yêu Thái Thanh và Dòng Sông Xanh từ đó.
Tôi nghiêng người nhìn lên cao. Thuyền đi qua chân cầu treo. Ở trên tít cao chiếc cầu lịch sử của Budapest được thắp sáng. Xa xa phủ lên một màu đèn sáng xanh là những câu cầu khác bắc ngang sông Danube, mỗi cầu là một công trình nghệ thuật, xứng hợp với các kiến trúc lịch sử ở hai bên bờ sông.
Hai bên bờ sông Danube ấy, một tuần lễ sau, là một quang cảnh khác, quang cảnh rực rỡ ánh nắng ban mai, khi đám du ngoạn chúng tôi bước lên một con tàu khác, ở một miền đất khác, miền đất của nước Aùo, của thành Vienna mộng mơ, và của quê hương hai nhạc sĩ lừng danh: Amadeus Mozart và Johann Strauss.
Rời Budapest hai hôm sau, chúng tôi di chuyển đến Vienna. Thành phố cũng có dòng Danube chẩy qua và cũng có du ngoạn bằng thuyền ban đêm trên sông. Nhưng chúng tôi không dự buổi du ngoạn ấy mà chọn một tour khác hai hôm sau, cũng trên sông Danube nhưng vào ban ngày, trên đường từ Vienna đến nơi sinh đẻ của nhạc sĩ Mozart, thành phố Salzburg. Thay vào đó đêm ấy chúng tôi dự một buổi hòa nhạc tại đại hí viện Imperial Palace do ban nhạc Wiener Hofburg trình diễn. Đây là buổi nhạc đại hòa tấu trình diễn nhạc của hai người con yêu quí nhất của Aùo quốc và của thành phố Vienna: J. Strauss & W.A. Mozart. Buổi hòa tấu chấm dứt bằng bản Dòng Sông Xanh với tiếng vỗ tay vang động tưởng như bất tận của khán thính giả.
Tuy nhạc của Johaan Strauss phổ thông trong lòng đại chúng hơn nhạc Mozart nhưng trong thời gian chúng tôi lưu trú ở Vienna (tháng 10 năm 2005) đi đâu chúng tôi cũng chỉ nghe nói đến Mozart, trưng hình Mozart. Những bức tượng Mozart được chùm kín trong bao plastic để tu sửa. Và sau này khi đến Salzburg chúng tôi thấy ngay căn nhà nơi Mozart sinh đẻ cũng được che kín để sửa sang. Robert giải thích thành phố đang được trang hoàng lại để sửa soạn đón lễ kỷ niệm 250 năm sinh nhật của người nhạc sĩ này vào năm sau 2006. Anh ta còn cho chúng tôi biết là đang có một sự thi đua giữa Vienna và Salzburg trong việc tổ chức năm kỷ niệm này và thành phố nào cũng đòi vơ Mozart vào như đứa con cưng riêng của mình. Mozart tuy sinh ra và sống ở Salzburg cho đến năm 25 tuổi, nhưng sau đó chàng đã chọn Vienna làm nơi định cư vĩnh viễn và chết tại đó.
Sau hai ngày ba đêm ở Vienna, xe buýt lên đường đi Salzburg. Thành phố này nằm ở phía tây của nước Aùo, gần biên giới Aùo-Đức. Nó nổi tiếng vì không những là nơi sinh trưởng của Mozart mà còn được xem là một thành phố đẹp nhất của Âu châu, được chọn làm bối cảnh cho cuốn phim âm nhạc đầy thơ mộng Sound of Music. Đây là chặng chót của chuyến du ngoạn trước khi chúng tôi trở về điểm xuất phát là thành phố Munich (Đức), kết thúc chuyến đi 14 ngày qua 5 nước Đông Âu bằng xe buýt, chuyến đi mang tên Bohemian Rhapsody mà tôi dịch là Đẹp như kiếp Bohémien dựa theo lời một bài hát Việt thịnh hành.
 Rời Vienna mấy cây số thì xe lên dốc. Xe chạy quanh co trong vùng đồi núi bao quanh thành phố, bỏ lại phía sau dưới thung lũng xa tắp là thành phố Vienna mộng mơ và con sông Danube uốn khúc lấp lánh ánh nắng. Tôi nhìn khu rừng thông hai bên đường và nghe Robert giải thích đây là rừng săn bắn; Johann Strauss đã cảm hứng trước vẻ đẹp của khu rừng này và sáng tác bản nhạc La forêt Viennoise.
Đến Krems, một làng nhỏ nằm ven bờ sông, xe ngừng. Chúng tôi xuống và bước lên một con tàu lớn, lớn hơn du thuyền ở Budapest. Tàu chạy trên sông Danube một đoạn dài 35 cây-số băng qua thung lũng Wachau, nằm giữa hai làng Krems và Melk. Khúc sông này được chọn vì nó đi qua một vùng tuyệt đẹp và tiêu biểu nhất: thung lũng Wachau là tổng họp giữa cảnh trí thiên nhiên và lịch sử, văn hóa của nước Aùo.
Du khách ngồi ở bàn ăn nhìn qua cửa kính. Ai nấy đền chĩa máy ảnh ra ngoài. Máy phóng thanh trên tàu giải thích những thắng tích, những lâu đài ở hai bên bờ. Tôi nhìn dòng sông rộâng mênh mang, sóng cuồn cuộn lấp lánh trong ánh nắng mai, bất giác hai bản nhạc bất hủ của dòng sông này lại hiện lên giao hòa trong trí tôi. Một dòng xanh… xanh…Một dòng tràn mênh mông…(Dòng Sông Xanh) chuyển thành một… dòng sông sâu... cuồn cuộn sóng trôi về nơi đâu. Gió… đưa buồm nâu… mang tâm hồn vào cõi u sầu… (Sóng Nước Biếc).
Người hầu bàn cúi xuống. Thái Vân gọi cốc nước cam. Tôi muốn gọi bia uống nhưng phân vân không biết chọn thứ bia nào vì trong thựïc đơn có ghi cả chục loại khác nhau. Bỗng tôi mỉm cười, quả quyết kêu to:
– Edelweiss!
Ôi! Tóc em hoe như mây chiều… Hình ảnh người con gái Vienna xẹt như một ánh sao.
Uống hết chai bia tôi định rủ Thái Vân lên bong tàu vì lúc ấy trời nắng to, hầu hết du khách đều lên bong hứng nắng. Nhưng tôi thấy nàng đang mải mê nói chuyện với cặp vợ chồng người Anh lúc đó đã trở thành bạn của chúng tôi, tôi cầm chiếc máy ảnh lên bong tàu một mình.
Trên bong ánh nắng chan hòa. Nắng hắt từ mặt sông làm lóa mắt tôi. Mặt sông bát ngát. Sóng lớp lớp… sóng lớp lớp… sóng đem nguồi vui. Đang chơi vơi… đang chơi vơi… sóng lan mọi nơi. Khi đau thương… khi yêu thương thiết tha vô vàn. Sóng dâng trong lòng ta mơ màng…
Tôi nghĩ đến đêm hai hôm trước ở Vienna trong quán ăn Ý, tự hỏi vì sao đúng vào giây phút gay cấn nhất tôi đột nhiên ngừng lại. Cái gì ngăn không cho tôi liều lĩnh hơn một chút? Nhát gan chăng? Sợ cô nàng la làng chăng? Có lẽ đúng thế. Nhưng tôi nhớ rõ cái cảm giác ngay sau quyết định ấy, khi tôi quẳng tiền trên đĩa, lặng lẽ bước ra cửa. Một cảm giác lịm đi vì buồn. Như mình vừa mới đánh mất một cái gì to lớn. Tôi ngợ không phải vì mất Anita. Mà buồn chính vì biết tuổi trẻ của mình đã mất. Ngày vui đã qua…bờ sông riêng có ta, nhìn sóng trôi về phương trời xa mịt mờ. Xót xa chiều nay ta đến đây để thấy trên dòng sông… duyên tình… tàn phai…
Tiếng nói của nhà tôi làm tôi chợt tỉnh:
– Anh đứng xích ra một chút, em chụp anh với cái lâu đài ở phía sau.
Thái Vân chĩa máy ảnh về phía tôi, tay nàng ngoắc ngoắc ra hiệu tôi đứng né sang một bên. Chụp xong tấm hình chúng tôi đứng tựa lan can nhìn cảnh vật bên sông. Cảnh trí ở đây trông đẹp như một cảnh giả. Lác đác trên đồi những căn nhà với những mái ngói đỏ tươi in trên nền cỏ xanh mượt như nhung khiến tôi nhớ đến những tranh vẽ trên những hộp kẹo tây tôi đã thấy hồi niên thiếu.
Tôi nói với nhà tôi:
– Trong bao nhiêu năm qua lời nhạc của Phạm Duy làm anh tưởng tượng con sông này sai bét. Cứ nghĩ nó là một con sông nho nhỏ xanh xanh, ở hai bên bờ lúc nào cũng đầy những cô gái cười đùa. Aùnh dương lên xôn xao, hai ven bờ sông sâu, cười ròn tiếng người, đẹp lòng sớm mai. Những cô em tươi môi, ngồi giặt yếm yên vui, thả ý thắm theo người chở gió về xuôi… Bây giờ thấy dòng sông này cũng chẳng xanh gì, mà lại rộng thênh thang, hai bên bờ thì vắng ngắt tàu chạy cả tiếng mà không vẫn thấy có bóng dáng một người nào.
Nàng nhìn tôi mỉm cười nói:
– Nếu không thấy hình ảnh “những cô em tươi môi” ở ven sông thì lấy hình ảnh “người đẹp thành Vienne” của anh thế vào.
Tôi hỏi:
– Người đẹp nào?
– Còn ai vào đây. Người đẹp Anita chứ còn ai nữa!
Tôi định chống chế, nhưng tôi chỉ mỉm cười, lắc đầu:
– Biết nhau hết!
Nhà tôi đưa máy ảnh nhắm tôi cười một cách giễu cợt rồi nàng cất tiếng hát nho nhỏ:
– Hát vang lên cho vui… A-ni-ta bên tôi… đời là khúc nhạc… đời là tiếng thơ…

 

Seattle, mùa nắng Hạ 2006.

Nguyễn Tường Thiết

 

 

 

 

© Copyright Nguyễn Tường Thiết 2006